Pháp luật quy định về khởi kiện
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trước kia (Toà án cấp cao hiện tại), đã có hướng dẫn liên quan như sau: “Trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện; tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì Toà án yêu cầu người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu người khởi kiện không thực hiện, thì Toà án căn cứ BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không được thụ lý vụ án”.

Đối với trường hợp trong Đơn khởi kiện, người khởi kiện có ghi đầy đủ cụ thể và đúng địa chỉ của người bị kiện, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho người khởi kiện, cho Toà án, nhằm mục đích dấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện, thì được coi là trường hợp người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình dấu địa chỉ. Toà án tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp TCTD đã điền đầy đủ địa chỉ nơi cư trú của Bị đơn trong Đơn khởi kiện, tuy nhiên, tại thời điểm nộp Đơn khởi kiện, Bị đơn đã đi khỏi nơi cư trú (là nơi ở ổn định, thường xuyên) nhằm trốn tránh trách nhiệm trả nợ khi đến hạn, nhưng Tòa án nơi thụ lý Đơn của TCTD vẫn yêu cầu TCTD phải làm thông báo tìm kiếm nơi cư trú hiện tại của Bị đơn, trường hợp không tìm được phải có xác nhận của công an, chính quyền địa phương về việc bị đơn cố tình lẩn tránh, không trả nợ TCTD. Việc này gây rất nhiều khó khăn cho TCTD.
Khó khăn cho các TCTD khi áp dụng
TCTD trong nhiều trường hợp, đã không thể tìm thấy nơi cư trú mới của Bị đơn, và khi nộp đơn, Tòa án lại không thụ lý giải quyết, nên nhiều vụ việc kéo dài đến hết thời hiệu khởi kiện mà TCTD vẫn chưa thu hồi được nợ, gây thất thoát tiền của nhà nước.
Bên cạnh đó, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại hiện nay là khá dài, theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng Ngân hàng tối đa là 3 tháng kể từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì tối đa 2 tháng, Tòa án phải mở phiên tòa. Tuy nhiên, thực tế nhiều Tòa án địa phương đã kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử này lên đến 9-12 tháng.
Ngay cả khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, nhưng do Bị đơn vắng mặt không có lý do, Tòa án ra quyết định hoãn phiên tòa thì thời gian hoãn phiên tòa cũng chưa tuân thủ quy định pháp luật, việc trì hoãn phiên tòa nhiều lần khiến cho thời gian giải quyết vụ án kéo dài rất lâu, không chỉ gây tốn kém về thời gian và chi phí của TCTD mà còn kéo dài thời gian thu nợ, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của TCTD.
Một số vụ án, TCTD là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Tòa án thông báo và đề nghị TCTD nếu muốn đảm bảo về quyền lợi thì TCTD phải có nghĩa vụ làm đơn khởi kiện và nộp tạm ứng án phí, điều này liệu đã phù hợp với quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự “Trong trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.

Trong quá trình tiến hành tố tụng, nhiều trường hợp Tòa án hiểu và áp dụng pháp luật chưa phù hợp về chuyên ngành tín dụng, bảo lãnh và đã tuyên án bất lợi cho các TCTD; Tòa án khi giải quyết tranh chấp, không xem xét các quy định của TCTD về quyền phán quyết tín dụng, phạm vi đại diện của người đại diện theo ủy quyền,… trong khi theo quy định pháp luật, TCTD được trao quyền ban hành các quy định này để đảm bảo hoạt động kinh doanh được an toàn; nhiều trường hợp, Tòa án tuyên bố Hợp đồng thế chấp tài sản bị vô hiệu, mặc dù, Hợp đồng thế chấp đã được cơ quan công chứng tiến hành công chứng, được đăng ký giao dịch bảo đảm theo đúng quy định pháp luật, tài sản thế chấp không bị bất kỳ cơ quan, Tổ chức nào kê biên, không bị hạn chế giao dịch.
Việc tuyên bố Hợp đồng thế chấp vô hiệu, Tòa án không xét đến thiệt hại xảy ra đối với TCTD và các bên có quyền, lợi ích liên quan, cũng như trách nhiệm của công chứng về tính hợp pháp của Hợp đồng thế chấp.
Đề xuất giải pháp thực hiện
Để đảm bảo các quan hệ giao dịch dân sự đúng theo quy định khi phát sinh tranh chấp liên quan đến hoạt động cho vay tại các TCTD, đồng thời, để ổn định cho hoạt động của các TCTD, tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế của đất nước, chúng tôi, đề xuất một số nội dung về thủ tục trong việc khởi kiện của các TCTD tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền.
- Xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định về thời gian thụ lý Đơn khởi kiện, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hiệu yêu cầu/khởi kiện vụ án/việc dân sự; quy định rõ các căn cứ từ chối thụ lý Đơn khởi kiện nhằm công khai, thể hiện sự bình đẳng của các cá nhân, tổ chức khi tham gia tố tụng. Tòa án khi thực hiện giải quyết vụ án dân sự cần phải chủ động xác minh và đưa tất cả các đương sự có liên quan vào tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
- Cần ban hành hướng dẫn chi tiết việc thụ lý Đơn khởi kiện của Tòa án trong trường hợp Bị đơn cố tình đi khỏi nơi cư trú nhằm trốn tránh trách nhiệm trả nợ, giảm thiểu tối đa các thủ tục không cần thiết như tìm kiếm chỗ ở hiện tại của bị đơn, xác minh, thông báo với chính quyền địa phương.
- Ban hành hướng dẫn Tòa án các cấp về việc áp dụng các quy định pháp luật chuyên ngành về tín dụng (đặc biệt là các quy định về phân cấp, ủy quyền quyết định cấp tín dụng) khi xem xét, giải quyết các vụ án tranh chấp liên quan đến Hợp đồng cấp tín dụng đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các TCTD trong trường hợp pháp luật đã giao quyền cho TCTD ban hành các quy định nội bộ.